NHẬN THỨC ĐÚNG VỀ CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI “BỎ QUA” CHẾ ĐỘ TƯ BẢN CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
“Khát vọng Việt Nam” hùng cường vừa là mục tiêu, vừa là nhiệm vụ của toàn thể nhân dân Việt Nam và toàn hệ thống chính trị. Tuy nhiên, những bước đi trên con đường ấy không hề đơn giản và dễ dàng. Nó đầy chông gai khi các thế lực thù địch phản động, các phần tử cơ hội, thoái hóa, biến chất luôn tìm cách để xuyên tạc, bôi nhọ, nói xấu hoặc cố tình nhận thức sai lệch. Do vậy, cảnh giác với các thế lực thù địch và nhận thức đúng quan điểm, đường lối của Đảng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là hết sức cần thiết.
Cần cảnh giác trước sự xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Trên các trang mạng xã hội có thể bắt gặp những bài viết với dạng quan điểm thù địch như: nước ta không phải là xây dựng chủ nghĩa xã hội bởi nếu xây dựng chủ nghĩa xã hội thì tại sao lại còn nhiều hiện tượng tiêu cực, bất công. Hoặc Việt Nam nói “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng vẫn sử dụng các thành tựu của chủ nghĩa tư bản thì có khác gì đang xây dựng chế độ tư bản chủ nghĩa…Những luận điệu ấy được “rêu rao” trên các nền tảng xã hội hoặc ẩn giấu đâu đó những những bài viết mang tính cá nhân. Nhiều người dân Việt Nam nhất là một bộ phận nhân dân được tiếp cận thông tin không nhiều hoặc thiếu hiểu biết, hoặc cố tình xuyên tạc đã nhận thức chưa đúng đắn, đầy đủ về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội “bỏ qua” tư bản chủ nghĩa ở nước ta với một xuất phát điểm từ nền kinh tế lạc hậu, lại bị ảnh hưởng nặng nề bởi các cuộc chiến tranh kéo dài. Đặc biệt khi đất nước ta “từng bước” xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong khi chủ nghĩa tư bản vẫn phát triển mạnh mẽ với những thành công trên các lĩnh vực, nhất là khoa học công nghệ. Chính những luận điệu đó hiện nay cũng phần nào chi phối, ảnh hưởng đến nhận thức của một bộ phận nhân dân, thậm chí là cán bộ, đảng viên do nhận thức của một số người chưa đầy đủ, một số khác cố tình hiểu sai.
Khi đưa ra luận điệu đó, họ đã cố tình lờ đi những minh chứng cả về lý luận, cả về thực tiễn đầy thuyết phục của Việt Nam hơn 90 năm qua.
Trên phương diện lý luận, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp.
Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngay tên nước được khai sinh đã khẳng định rõ con đường xây dựng đất nước của Việt Nam. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn khẳng định nhất quán con đường xây dựng đất nước là chủ nghĩa xã hội “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa. Đây là lựa chọn đúng đắn và phù hợp. Vậy phù hợp ở điểm nào?
Thứ nhất, con đường này phù hợp với các quy luật khách quan của lịch sử. Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ ra rằng, quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài người đã, đang và sẽ trải qua 5 hình thái kinh tế - xã hội khác nhau là tất yếu khách quan. Sau khi thực hiện thành công cách mạng vô sản, xã hội loài người sẽ đến hình thái kinh tế - xã hội Cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, tùy điều kiện quốc gia, dân tộc mà có thể bỏ qua một hoặc một vài hình thái kinh tế - xã hội nào đó. Cũng như nước Mỹ, Úc hay một số quốc gia khác, Việt Nam cũng có đường đi của riêng mình là bỏ qua một hình thái kinh tế - xã hội (Tư bản chủ nghĩa). Lựa chọn này không trái quy luật.
Thứ hai, “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta được Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định, đó là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa nhưng có tận dụng những thành tựu của xã hội loài người dưới thời chủ nghĩa tư bản để thực hiện con đường phát triển “rút ngắn”. Lựa chọn này là đúng đắn.
Thứ ba, chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng, để xây dựng chủ nghĩa xã hội không hề dễ dàng, phải trải qua một thời kỳ lịch sử đặc biệt, một “cơn đau đẻ kéo dài” – đó là thời kỳ quá độ. Kế thừa và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, Việt Nam lựa chọn thực hiện thời kỳ quá độ “gián tiếp” đi lên chủ nghĩa xã hội với lộ trình và bước đi cụ thể trong từng giai đoạn.
Như vậy, nước ta lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với các quy luật khách quan mà lý luận của học thuyết Mác – Lênin đã chỉ ra.
Trên phương diện thực tiễn, những kết quả trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta đã chứng minh xây dựng chế độ xã hội công bằng, bình đẳng là đúng đắn.
Ở Việt Nam, năm 1954 miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Năm 1975, đất nước thống nhất, cả nước bước vào thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Từ năm 1975-1986, do muốn đi nhanh lên chủ nghĩa xã hội nên nước ta đã vận dụng quy luật của chủ nghĩa Mác – Lênin chưa phù hợp. Từ 1986 đến nay, Đảng ta tiến hành thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Sau 35 năm đổi mới, tốc độ tăng trưởng kinh tế có sự thay đổi vượt bậc (giai đoạn 2016 -2019 đạt 6,8% gấp 2,4% so với giai đoạn 1986-1990). Riêng năm 2020, mặc dù bị dịch covid -19 tác động mạnh mẽ, song Việt Nam vẫn là một trong những quốc gia có tăng trưởng kinh tế đạt gần 3%
Điều đó phần nào cho thấy, quá độ lên chủ nghĩa xã hội “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam là một quá trình lâu dài, không hề dễ dàng. Bởi vậy, trong những giai đoạn lịch sử nhất định cần phải thận trọng và có những định hướng phù hợp. Từ thực tế đó, muốn phát huy hết các nội lực và ngoại lực để thực hiện con đường phát triển rút ngắn, Việt Nam đã vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về phát triển kinh tế nhiều thành phần, xác định rõ vị trí và vai trò của từng thành phần kinh tế để có những chính sách đúng đắn và phù hợp.
Trong thực tế, có luận điểm cho rằng “kinh tế tư nhân” là một động lực quan trọng của nền kinh tế, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển thì Việt Nam có phải đang phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa? Đây có thể nói là một nhận định sai lầm, bởi muốn thực hiện con đường phát triển “rút ngắn” Việt Nam cần tận dụng các nguồn lực trong và ngoài nước, cần tranh thủ những thành tựu của xã hội loài người, trong đó có thành tựu của chủ nghĩa tư bản. Bên cạnh đó, Đảng ta xác định kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể ngày càng giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế càng khẳng định rõ đặc trưng mà học thuyết Mác – Lênin đã chỉ ra về chủ nghĩa xã hội (đó là từng bước xây dựng chế độ công hữu tư liệu sản xuất). Mặt khác, theo lý luận của học thuyết Mác – Lênin, nếu quan hệ sản xuất nào giữ vai trò thống trị thì nó sẽ quy định đó là cơ sở hạ tầng nào. Mà cơ sở hạ tầng lại là căn cứ, nguồn gốc để hình thành kiến trúc thượng tầng. Do vậy, việc xác định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trước hết là bỏ qua việc xác lập quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa với vai trò thống trị là đúng đắn và phù hợp.
Xác định rõ vấn đề “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa, Đảng ta khẳng định không xác lập kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa ở nước ta. Thực tế cho thấy, các quan điểm, tư tưởng, thiết chế tương ứng trong kiến trúc thượng tầng ở Việt Nam đều hướng tới bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã bổ sung thêm “dân giám sát, dân thụ hưởng” vào phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” và từ đó đã khẳng định rõ ràng hơn về quyền là chủ và làm chủ của nhân dân. Để khẳng định và làm tốt công việc này, Chính phủ đã ban hành Kế hoạch xây dựng Đề án “Chiến lược xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đến năm 2030, định hướng đến năm 2045” với hệ thống pháp luật hoàn thiện, đồng bộ và khác biệt về chất với chủ nghĩa tư bản mà các thế lực thù địch đang cố gắng bảo vệ và rêu rao trong thực tế.
Có thể nói, những kết quả đã đạt được có ý nghĩa quan trọng đưa nước ta từ một nước có xuất phát điểm thấp trở thành một nước có “cơ đồ, vị thế và uy tín trên trường quốc tế” được nâng cao. Và những mục tiêu mà đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII đề ra đến năm 2045 với lộ trình cụ thể đã khẳng định trên cả phương diện lý luận và thực tế - con đường đi lên chủ nghĩa xã hội “bỏ qua” chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta vẫn là đúng đắn và phù hợp với quy luật và điều kiện cụ thể của Việt Nam.